Truyền thuyết cho rằng, nơi “Cõi Âm Phủ” có một cây cầu rất mỏng manh, khó đi, gọi là cầu Nại Hà, bắc ngang một con sông lớn gọi là sông truyền kiếp. Có sáu loại cầu Nại Hà làm bằng 6 loại vật liệu khác nhau, tương ứng với Lục đạo luân hồi. Các linh hồn sau khi “thẩm định” phước phần, sẽ cho đi Đầu thai (tái sinh) vào các nơi tương ứng theo nghiệp báo.
PV: Một người đang bình thường, bỗng làm những việc không bình thường, biểu hiện tâm thần, nhiều người cho rằng bị ma nhập, ma hành. Nếu có, TS có thể nêu trường hợp cụ thể và phân tích nó.
TS Vũ Thế Khanh: Nếu một người có đời sống phạm hạnh và công đức tu hành cao thì không thể bị ma hành. Nếu một người bị ma hành thì đó là do chiêu cảm về nhân quả trong kiếp quá khứ.
Còn chuyện bị “Ma nhập” theo cơ chế “hồn Trương Ba, da Hàng Thịt” thì lại là hiện tượng mượn xác để chuyển thông điệp khi người thân không có khả năng ngoại cảm. Cơ chế mượn xác là hình thức cho linh hồn của người đã khuất (đang còn ở thân Trung ấm, chưa đi tái sinh) có thể mượn xác của người còn sống để giao lưu, gửi thông điệp.
Cơ chế này có thể ví như chuyện “mượn xe” vậy, tuy nhiên mức độ huyền bí thì vi diệu hơn nhiều. Ta hãy hình dung sự tương đồng: Khi chiếc xe còn lưu hành trên đường thì tài xế và chiếc xe phải song hành cùng nhau và cùng vận tốc, cùng vị trí địa lý (cũng như người còn sống, linh hồn và thể xác luôn song hành với nhau).
Nhưng khi xe bị hỏng hóc, chết máy không lưu hành được thì tài xế phải ra khỏi xe và trở thành kẻ lang thang, di chuyển tự do, hoàn toàn không hề phụ thuộc vào trạng thái cũng như vị trí của cái xe nữa, (cũng như khi người ta chết, linh hồn thoát ra khỏi xe – là cái xác và hoàn toàn không phụ thuộc vào xác chết). Nếu đủ tiền thì tài xế có thể mua xe khác (ví như linh hồn đã tái sinh đầu thai). Nếu chưa mua được xe mới thì tài xế tiếp tục lang thang, và có thể “mượn xe” của ai đó để dùng (cũng ví như hồn mượn xác của người còn sống để nhập vào).
Khi chủ xe đòi thì tài xế phải trả xe, nhưng nếu không trả thì gọi là “cướp xe” (ví như linh hồn mượn xác để nhập, nhưng không chịu xuất ra thì gọi là cướp xác, người cho mượn xác sẽ gọi là bị điên, bị ma hành). Điều đó được minh chứng bằng nhiều hiện tượng của các “Trung tâm gọi hồn” ở các nơi, do không hiểu biết về Tâm linh, và do thiếu đạo lực, đặc biệt là do mục đích không lành mạnh nên dẫn tới hệ lụy về tâm linh, tâm thần bị điên loạn, gia đình sẽ gặp sự chẳng lành.
Quá trình mượn xe (cũng như mượn xác) phải trải qua quy trình rất tế vi mới có thể đạt được hiệu quả theo quy luật “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” được.
Trong những trường hợp người chủ trì không đủ đạo lực và không lương thiện thì không nên tổ chức cho “mượn xe” một cách tùy tiện, dễ gây hậu quả “tiền mất tật mang”.
Hàng năm Liên hiệp UIA tại Số 1 Đông Tác đã phải xử lý, cứu chữa cho hàng trăm vụ sự cố của các gia đình do đã tin theo các “trung tâm áp vong gọi hồn” tại các địa phương” dẫn đến bị tâm thần phân liệt dạng hoang tưởng hoặc bị mất tự chủ.
PV: Thế giới họ có nghiên cứu về ma, về tái sinh không? Quan niệm của thế giới về ma có giống như người dân nước ta không, thưa TS?
TS Vũ Thế Khanh: Sợ Ma gần như là “bản năng tự nhiên” của người yếu bóng vía khi gặp phải những sự kiện dị thường, kỳ bí.
Từ xa xưa, hầu hết các nước trên thế giới đều có những nghiên cứu liên quan đến Ma, và tỷ lệ những người sợ Ma ở các quốc gia cũng phải chiếm quá nửa dân số.
Ở nước ta cũng như trên thế giới đã gặp khá nhiều các trường hợp chứng tỏ sự tái sinh. Trong gần 20 năm qua, 3 cơ quan (Liên hiệp Khoa học Công nghệ Tin học Ứng dụng – UIA, Viện Khoa học Hình sự – Bộ Công an, Trung tâm Bảo trợ VHKTTT) đã cùng hợp tác trong chương trình nghiên cứu về thế giới siêu hình, xác minh các bằng chứng về Tâm linh, ngoại cảm, ma, tái sinh…
Trong quy trình nghiên cứu, không chỉ khảo nghiệm hàng trăm mà là hàng vạn các ca điển hình để tăng độ tin cậy trong thuật toán xác suất thống kê, nhằm phát hiện ra các quy luật của thế giới siêu hình.
Người ta giải thích rằng, khi con người chết đi, do sự tương tác của nghiệp quả mà có thể đi tái sinh ở các cảnh giới tương ứng. Trong khi nghiên cứu về các vụ án hình sự, cũng đã tìm được nhiều bằng chứng thể hiện sự liên quan Nhân quả giữa hành vi của kiếp hiện tại với các hành vi trong kiếp quá khứ của các đương sự gây án.
Theo thống kê, trên thế giới những cặp tương đồng (về sự kiện trong cuộc đời, về tính cách, về tài năng…) nhiều vô kể.
Đơn cử một cặp trùng lặp rất thú vị giữa Napoléon và Hitle. Chẳng hạn, Napoléon sinh năm 1760, Hitle sinh năm 1889 chênh nhau 129 năm. Đặc biệt, rất nhiều sự kiện trùng và chênh nhau đúng 129 năm như: Napoléon nắm quyền năm 1804, Hitle năm 1933 chênh 129 năm. Napoléon chiếm Viên (Áo) năm 1809, Hitle năm 1938 chênh 129 năm. Napoléon chiếm Nga năm 1912, Hitle chiếm Nga 1941; Napoléon thua Nga 1816, Hitle thua Liên Xô 1945. Napoléon và Hitle đều nắm quyền binh năm 44 tuổi, đánh chiếm Viên năm 49 tuổi, đánh chiếm Nga năm 52 tuổi và đều vỡ mộng bá chủ ở tuổi 56…
Phật giáo đã nói rõ về sự tương quan giữa quá khứ, hiện tại và tương lai trên một trục thời gian vô tận (vô thủy vô chung) theo quy luật Nhân quả – Luân hồi . Luân là quay, hồi là trở lại. Hiện tượng tái sinh cũng chỉ là một trong các sự kiện nằm trong quy luật của Luân hồi mà thôi.
Luật Nhân quả – Luân hồi được tượng trưng bằng quyền năng của vị thần (Diêm Vương), tùy theo nghiệp duyên mà cho tái sinh vào các cõi tương ứng (ví như học sinh thi đại học, tùy theo sở trường nguyện vọng và trình độ học lực mà có thể được chọn vào các trường học cho phù hợp). Quy trình tái sinh được “cụ thể hóa” như đã mô tả trong truyền thuyết về Cầu Nại Hà.
Truyền thuyết cho rằng, nơi “Cõi Âm Phủ” có một cây cầu rất mỏng manh, khó đi, gọi là cầu Nại Hà, bắc ngang một con sông lớn gọi là sông truyền kiếp.
Có sáu loại cầu Nại Hà làm bằng 6 loại vật liệu khác nhau, tương ứng với Lục đạo luân hồi. Các linh hồn sau khi “thẩm định” phước phần, sẽ cho đi Đầu thai (tái sinh) vào các nơi tương ứng theo nghiệp báo (thành nam hay nữ, giàu hay nghèo, sang hay hèn, khôn hay ngu, thọ hay yểu…). Việc đi tái sinh không chỉ ở cõi người mà còn có thể tái sinh trong lục đạo luân hồi. Với cõi giới hữu hình (cõi Ta Bà) thì có 5 phương thức khi tái sinh: Noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, và bàng sinh. Về hình dạng thì có: Loài không chân, hai chân, bốn chân hoặc nhiều chân. Có loài thì tự chết, có loài thì bị giết chết…
Có nhiều trường hợp “lộn kiếp” được biết đến từ khi trẻ mới bắt đầu biết nói. Chúng kể về cuộc sống kiếp trước của mình, làm cho cha mẹ và người thân rất hoang mang, trừ ở Ấn Độ, nơi mà luật Luân hồi được nhiều người biết đến và người ta phản ứng rất bình tĩnh trong gia đình khi có một đứa bé lộn kiếp.
Chẳng hạn, có một thiếu niên sinh ra ở Los Angeles (Mỹ) năm 1965. Tháng 8/1971, cha mẹ phát hiện ra cậu bé 6 tuổi có khả năng chơi đàn piano tuyệt vời, mặc dù cháu chưa bao giờ được học chơi piano. Các chuyên gia âm nhạc trong vùng xác định rằng những bản nhạc cậu chơi thường là các khúc nhạc Jazz độc đáo của nhà dương cầm nổi tiếng đã mất năm 1954. Đầu thế kỷ XX, một cô gái Anh tên là Romary bỗng nhiên biết tiếng Ai Cập cổ đã bị thất truyền lâu rồi. Romary tự xưng là người Xyri vào năm 1400 trước công nguyên bị bắt đến Ai Cập làm nô lệ và làm vũ nữ trong cung điện thờ thần Ai Cập. Nhưng ít ai tin lời Romary. May nhờ một nhà bác học Ai Cập biết tiếng Ai Cập cổ xác nhận thì người ta mới tin câu chuyện của cô là có thật.
Tuy nhiên, càng lớn lên thì đứa trẻ bắt đầu quên những ký ức về kiếp trước cho đến khi quên hẳn, (như khi chuyển cơ quan thì lúc đầu có thể nhớ những lịch trình công việc của cơ quan cũ, rồi sau thời gian dần dần sẽ quên hẳn cơ quan cũ).
Đa phần chúng ta không nhớ rõ kiếp trước mình là ai, trừ các bậc tu hành đạt tới cảnh giới cao minh. Người xưa, giải thích hiện tượng “quên kiếp trước” như sau: Người ta khi chết đi phải qua cây cầu Nại Hà để tái sinh. Tại đầu cầu này có quán ăn, ai đi qua đó cũng được đãi ăn bát cháo. Cháo này gọi là “cháo lú”. Công dụng chính của cháo lú là để linh hồn người chết quên hết những gì về quá khứ của đời mình để dễ dàng cho việc đầu thai sau này. Vì nếu không quên được thì hành giả vẫn còn mang nặng những nhớ thương tiếc nuối về cảnh cũ, người xưa, tình ruột thịt, máu mủ giữa cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái… khiến lúc tái sinh luân hồi, họ lại tìm đến những gì liên hệ với tiền kiếp. Điều đó làm khó khăn trở ngại cho kiếp sống sau khi tái sinh. Nói tóm lại, sự kiện “ăn cháo lú” giống như là họ bị “tẩy não”.
Theo cách giải thích của người xưa, cũng có những linh hồn tái sinh vẫn chưa “lú” hết, vẫn còn nhớ về kiếp trước, giống như khi “chuyển công tác” thì vẫn nhớ về “cơ quan cũ” vậy. Điều này ví như “do ăn ít cháo Lú quá”, hoặc vì lý do nào đó “chưa kịp ăn cháo Lú” nên người đó vẫn có thể nhớ về kiếp trước của mình. Đấy là sự giải thích theo kiểu “tín ngưỡng dân gian”. Còn theo Phật giáo, “sự quên” này do vô minh che khuất (giống như nước bị vẩn đục hoặc bị sôi, hoặc bị sóng dao động, bị vật chướng che khuất…) trong chu trình tái sinh, nên không nhìn thấy được nghiệp quả của quá khứ. Khi đủ duyên, đạt tới trạng thái tĩnh lặng và thanh tịnh thì nước lại trong suốt và ta lại có thể nhìn thấy sự kiện xảy ra trong kiếp quá khứ.
Khi đã thấy suốt được quy luật của Luân hồi thì mọi sự sinh ra đều do Duyên hình thành, không có điều gì nằm ngoài sự điều khiển của quy luật Nhân – Duyên – Quả. Tuy nhiên, cho dù “cháo lú” có tác dụng hay không, thì “sự ảnh hưởng” của Nghiệp báo từ tiền kiếp vẫn còn tác động đến tương lai. Sự ảnh hưởng này thường được diễn tả bằng các hiện tượng thần đồng, siêu nhân, năng khiếu bẩm sinh, hoặc yếu tố di truyền…
Người Việt Nam từ xa xưa đã tin vào hiện tượng tái sinh (còn gọi là lộn kiếp). Khi gặp các trường hợp hữu sinh vô dưỡng nhiều lần, họ không muốn những đứa trẻ yểu tử ấy cứ “lộn kiếp” vào nhà mình mãi nên thường đổ chàm vào mặt để “đuổi đi” hoặc đánh dấu các vết son xem sau này sẽ tái sinh về đâu.
Người Trung Quốc từ xa xưa cũng tin vào sự tái sinh. Theo dã sử, chính Võ Tắc Thiên sinh ra cũng có “vết son” tại đúng vị trí tương tự như trên thi thể của một cung nữ bị giết mà Đường Cao Tông (Lý Trị) đã đánh dấu, ngày mà Võ Tắc thiên được sinh ra cũng trùng với ngày mà cung nữ bị giết, do vậy Võ Tắc Thiên được thiên vị ngay từ khi mới được tuyển vào cung.
Nhưng cũng có trường hợp ký ức về kiếp trước còn tồn tại lâu dài. Trong kiếp hiện tại, họ chỉ mượn xác thân mới, thông qua tinh cha + huyết mẹ + thần thức của họ để thể hiện trên cuộc đời. Vì vậy, khi sinh ra đứa trẻ này vẫn còn tư duy cũ, thường có ý tưởng hành trình đi tìm cha mẹ cũ mà mọi mật mã thông tin đều được lập trình và lưu giữ trong tàng thức của họ.
Chẳng hạn như trong cuốn tự tuyện “Tây Tạng – Tổ quốc của tôi” Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14 đã kể tường tận sự đầu thai chuyển kiếp của mình.
Để giải thích hiện tượng tái sinh, trên thế giới đã có hàng trăm loại ấn phẩm nói về lĩnh vực này như: bí ẩn tiền kiếp hậu kiếp, luân hồi, nhân quả, sự sống sau khi chết, tử thư, người chết đi về đâu, Tây Tạng huyền bí, Ai cập huyền bí, Xứ Phật huyền bí, Phương Đông huyền bí, nghiệp báo, Địa ngục du ký, Thiên đàng du ký, Liêu Trai, Lạt Ma Tây Tạng, Cao Tăng dị truyện, Kinh Pháp Cú, Các hiện tượng tái sinh, soi kiếp của Kaysi…
Trên cơ sở hàng ngàn, hàng vạn những bằng chứng điển hình, các cơ quan khoa học (là Liên hiệp Khoa học UIA, Viện Khoa học hình sự Bộ Công an, Trung tâm bảo trợ VHKTTT) đang biên tập, loại bỏ những yếu tố mang tính ngẫu nhiên, tuyển lựa những sự kiện mang tính quy luật để vẽ nên bức tranh về thế giới siêu hình, phục vụ cho công tác khảo nghiệm khoa học Tâm linh. Nhưng có chăng thì đó cũng chỉ là “sẩm sờ voi” mà thôi, bởi sự thấy biết của con người là rất nhỏ bé so với sự mênh mang kỳ bí của tam thiên đại thiên thế giới.
PV: Cảm ơn sự chia sẻ của TS.