CHÁNH NIỆM SAO KHÓ QUÁ!

1Có những lúc ta rất muốn lòng lắng xuống, tâm dứt hẳn những dòng ý tưởng cứ lăng xăng tuôn ra mãi không thôi. Như vào một buổi sáng sớm, mọi vật còn đang chìm trong giấc ngủ mà ta đã thức dậy. Ta nằm im hoặc ngồi bất động, những mong đắm chìm trong cõi tĩnh lặng, lắng nghe được sự yên tịnh kiểu như nghe được “tiếng vỗ của một bàn tay” thế mà ta có lặng yên được đâu. Thân ta lúc đó đúng là bất động, chung quanh cũng dường như bất động vì mặt trời còn ngủ yên để cho bóng tối tràn ngập. Nhưng tâm ta thì ôi thôi, các ý tưởng cứ làm xàm mãi không dứt. Hết nghĩ về quá khứ lại dự phóng tới tương lai, và những ý nghĩ đó làm cho ta khi thì phấn khởi hào hứng, lúc lại lo lắng giận hờn. Đây chính là lúc ta cần đến chánh niệm.
 
Chánh niệm là không suy nghĩ vẩn vơ, không bị quá khứ ràng buộc, không chấp nhận tương lai lôi kéo, mà nhìn thấu, lắng nghe mọi sự như chúng đang là trong hiện tại để giải quyết bằng những hành động đúng đắn. Phải có chánh niệm mới mong được giải thoát khỏi những ham muốn, bám chấp mang tính ích kỷ vì bị “cái tôi” và “cái của tôi” chi phối.
 
Không có chánh niệm, con người cứ so sánh những gì đã qua thuộc ký ức hoặc những điều do hướng đến tương lai mà xuất hiện trong trí não với những cái thuộc hiện tại khiến nảy sinh những suy nghĩ tiêu cực như có ý định tham nhũng hoặc lập kế hoạch trả thù. Để rồi, con người luôn luôn cảm thấy bất an với mọi sợ hãi, lo âu, phiền muộn, có khi phải dùng thuốc an thần hoặc đến độ phải“cầu cứu”cả ma túy. Nhưng làm sao mà chánh niệm khi lúc nào ta cũng băn khoăn đến “cái tôi”và “cái của tôi”? Ôi! “chánh niệm”sao mà khó vậy!
 
Giải phẫu trí nhớ
 
Khoa sinh học đã cho biết, cơ sở vật chất của hoạt động trí não, tức suy nghĩ và tư tưởng, chính là bộ óc của con người. Tư tưởng được hình thành chủ yếu dựa vào ký ức hay trí nhớ. Trí nhớ là một hoạt động thần kinh, là khả năng trí tuệ gìn giữ những kinh nghiệm sống đã qua, để rồi tái hiện trong ý thức khi cần thiết; ngay cả cái gọi là hoạch định tương lai trong trí não con người thực chất cũng chỉ là ký ức được cải biến dự phóng. Trí nhớ là quá trình phức tạp gồm ba giai đoạn: nhận biết, lưu trữ, tái hiện trong hoạt động trí não. Hiện nay, nhờ sự phát triển của khoa học não bộ mà con người đã chứng minh các quá trình hoạt động thần kinh, đặc biệt quá trình phức tạp của ký ức tùy thuộc vào cấu trúc và số lượng tế bào thần kinh, tùy thuộc vào hoạt động của các chất sinh học gọi là chất dẫn truyền thần kinh.
 
Não bộ hình thành trí nhớ thông qua việc thể hiện các chức năng: Tiếp nhận thông tin từ bên ngoài vào (ánh sáng, nhiệt độ, lời phê bình của người khác…) hoặc từ bên trong cơ thể (cảm giác của các nội tạng, áp suất máu, sự tự phê bình dày vò bản thân…); Xử lý thông tin qua các quá trình phân tích, tổng hợp, đánh giá thông tin; Quyết định hành động bằng cách lập chương trình, kiểm tra và điều hòa hành động. Đây cũng gọi là sự đáp ứng. Nếu sự đáp ứng là khả năng lưu giữ thông tin từ môi trường bên ngoài tác động vào cơ thể hoặc từ những phản ứng xảy ra trong cơ thể và khi nào cần sẽ tái hiện lại các thông tin, thì đó chính là trí nhớ.
 
Để tiếp nhận, xử lý các thông tin và đáp ứng, não bộ nhờ đến hoạt động của hàng trăm tỷ tế bào thần kinh (neuron). Tế bào thần kinh (TBTK) là đơn vị chức năng của não bộ có nhiệm vụ kích thích, phát và dẫn truyền các xung động thần kinh; thực chất đây là thông tin đã được mã hóa thành điện thế hoạt động.
 
Các xung động thần kinh được lan truyền từ TBTK này sang TBTK khác thông qua các chất dẫn truyền thần kinh (DTTK). Các chất DTTK được gọi như thế vì chúng có nhiệm vụ dẫn hướng và làm lan truyền các xung động thần kinh thực chất là các thông tin đi khắp hệ thần kinh của chúng ta tạo ra cái gọi là hoạt động trí não.
 
Hiện nay người ta đã xác định có khoảng 40 chất DTTK làm nhiệm vụ dẫn truyền các thông tin trong não bộ tức góp phần tạo ra và lưu trữ trí nhớ của chúng ta. Vùng lưu trữ trí nhớ được cho là vùng amygdala và hippocampus trong não. Một số chất DTTK có tác dụng kích thích như acetylcholin, adrenalin, noradrenalin, glutamat… Một số chất DTTK có tác dụng ức chế như serotonin, gamma-amino butyric acid (GABA)… Có một số chất DTTK có tác dụng điều chỉnh, như dopamin gây tác dụng ức chế hoặc kích thích tùy vào thụ thể mà nó gắn vào. Chính các chất DTTK hoạt động góp phần vận hành trí nhớ của chúng ta, đặc biệt acetylcholin được xem là chất tham gia chủ yếu vào hoạt động trí nhớ.
 
Làm chủ trí nhớ
 
Đến đây xin trở lại vấn đề là tại sao chúng ta quá khó để “chánh niệm”. Tại sao ta cứ lặp lại tư duy cũ, nhớ lại những việc xưa cũ gây phiền não một cách không cần thiết và tư duy cũ được cải biến để dự phóng thành cái gọi là tương lai trong đầu chúng ta? Hiện nay, khoa học về não bộ đã có những giải thích về sự vận hành của trí não; và tuy những giải thích đó có phần vẫn còn là giả thuyết chứ chưa sáng tỏ hoàn toàn, nhưng chúng ta cũng có thể vận dụng sự giải thích đó để thử lý giải“chánh niệm sao mà khó thế”.
 
Người ta phân biệt trí nhớ ra hai loại: trí nhớ dương tính và trí nhớ âm tính. Trí nhớ dương tính có thể lặp lại tư duy cũ một cách dễ dàng. Chẳng hạn, những ký ức về đau đớn hay về giận dữ, phiền muộn rất dễ là trí nhớ dương tính.
 
Còn ký ức âm tính là loại thông tin mà não bộ bỏ qua không lưu giữ vì các thông tin ấy được xem là không quan trọng, không ảnh hưởng đến cái “tôi” là chủ của não bộ đó. Trí nhớ dương tính chỉ có giá trị khi nào nó hoạt động vào lúc thật cần thiết. Rõ ràng nếu đầu óc ta lúc nào cũng vương vấn điều phiền muộn thì đó là điều không tốt. Ngược lại, nếu trí não biết vận dụng, chuyển hóa những thông tin không cần thiết, những tư duy hại mình hại người thành trí nhớ âm tính thì lại quá tốt. Chánh niệm chính là thực hiện những việc đó, xem ra có vẻ đơn giản nhưng cực kỳ khó khăn vì có thể do mấy lẽ sau đây.
 
Chất DTTK thường sống cuộc đời ngắn ngủi, do bên cạnh nó có chất phân hủy nó gọi là enzym. Nhưa cetylcholin bị phân hủy bởi enzym acetylcholin esterase.
 
Kế tiếp, sự tổng hợp các chất DTTK tùy vào điều kiện số lượng sẽ nhỏ nhưng cũng rất lớn. Các phân tử DTTK vừa chết đi sẽ được thay bằng gấp nhiều lần số phân tử mới để kéo dài hoạt động gọi là trí nhớ dương tính. Hơn nữa, hệ thần kinh có thể huân tập, làm mạnh thêm ký ức bằng cách tổng hợp thêm các thụ thể là nơi gắn chất DTTK để các chất này phát huy tác dụng.
 
Tại sao trí não cứ luôn tạo trí nhớ dương tính không cần thiết và không thể chuyển hóa những suy tưởng tiêu cực thành trí nhớ âm tính để không lưu trữ lâu dài? Con người đã trải qua sự tiến hóa hàng ngàn ngàn năm để trở thành người với bộ óc phát triển như ngày nay. Bên cạnh tâm thức phát triển vẫn còn tồn tại bản năng sinh tồn của người vượn lúc nào cũng tìm cách duy trì và bảo vệ cái “tôi” hoang dã. Cái “tôi” luôn thôi thúc não bộ lúc nào cũng cảm thấy sợ hãi từ trong ý thức và vô thức, luôn tìm đến sự an toàn bằng hành vi vô minh, lầm lạc, đầy ảo tưởng là tạo ra trí nhớ dương tính không cần thiết. Chánh niệm sao quá khó chính là vậy.
 
Trong dược học, người ta có tìm ra các thuốc giúp con người trấn áp trí nhớ dương tính. Như các thuốc an thần giải lo (anxiolytics) hay các thuốc có nguồn gốc ma túy làm người ta tạm thời quên đi những gì làm cho lo nghĩ, khổ sở. Khổ nỗi, hết tác dụng thuốc thì tình trạng khốn khó cũ lại tiếp diễn; và tai hại hơn, dùng các thuốc này lâu sẽ bị nghiện và nô lệ vào thuốc. Bên cạnh việc dùng thuốc như dùng con dao hai lưỡi, vẫn còn có cách mà con người áp dụng từ xưa. Đó là tìm cách đạt được chánh niệm bằng thiền định.
 
Ngày nay, khoa học về não bộ đã chứng minh thiền định có thể giúp chuyển hóa, biến đổi của hoạt động não bộ. Như người ta đã dùng kỹ thuật chẩn đoán MRI tiên tiến để chứng minh thiền định giúp con người chế ngự sự đau đớn hoặc có trạng thái an nhiên tự tại với hình ảnh thay đổi những vùng trên não bộ rõ ràng. Chánh niệm sao quá khó chỉ vì con người không biết đến thái độ mà vị vua thiền sư là ngài Trần Nhân Tông đã nói “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền” (Tỉnh bơ trước cảnh, mắc chi hỏi Thiền). Trong cuộc sống dễ gây phiền não, xung đột nội tâm, hãy thử thiền định để làm chủ trí nhớ dương tính của não bộ.
NGUYỄN HỮU ĐỨC

Comments are closed.